Chi tiết tin - Sở Thông tin và Truyền thông

 
LƯỢT TRUY CẬP

Đang truy cập: 10

Hôm nay: 1390

Tổng lượt truy cập: 1.433.799

Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến công tác dân tộc miền núi

Ngày cập nhật: 23/10/2024 09:37:25

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc với 54 dân tộc anh em sinh sống trên khắp mọi miền đất nước. Các dân tộc thiểu số ở nước ta sinh sống trên địa bàn 51 tỉnh, thành phố, 548 huyện và 5.266 đơn vị hành chính cấp xã; chủ yếu ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và Tây duyên hải miền Trung.

Đường vào buôn làng của bà con Vân Kiều - Pa Kô được đầu tư xây dựng khang trang

Có ba dân tộc Khmer, Chăm, Hoa sinh sống ở đồng bằng và thành thị, còn 50 dân tộc thiểu số còn lại sinh sống thành cộng đồng ở khu vực miền núi, biên giới, vùng sâu, vùng xa. Đảng và Nhà nước Việt Nam ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến công tác dân tộc, đặc biệt là ở các vùng miền núi, nơi còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội.

          Chính sách phát triển kinh tế

Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế vùng miền núi. Những chương trình phát triển nông thôn mới, chính sách ưu đãi cho đầu tư vào các khu vực miền núi và các dự án hỗ trợ sản xuất nông nghiệp đã được triển khai. Nhờ đó, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số từng bước được cải thiện, góp phần nâng cao thu nhập và giảm nghèo bền vững. Chính sách dân tộc được thể hiện trong tổng thể các chương trình, chính sách của Đảng, Nhà nước về dân tộc và vùng dân tộc thiểu số như: Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (khóa IX) về “Công tác dân tộc”; Nghị định số 05/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14/01/2011 về “Công tác dân tộc”; Đề án “Tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền  núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn giai đoạn 2021-2030” của Chính phủ… Các nội dung, quan điểm cơ bản trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là: “Bảo đảm bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và tương trợ giữa các  dân tộc; tạo điều kiện cho các dân tộc cùng phát triển; thực hiện chính sách ưu tiên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số; kiên quyết chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc”.

Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi luôn là một nhiệm vụ mang tính chiến lược. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc trên tất cả các lĩnh vực, nhất là các chính sách đặc thù giải quyết những khó khăn của đồng bào dân tộc thiểu số. Tạo sinh kế, việc làm, định canh, định cư vững chắc cho đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Tập trung triển khai hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia Phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 -2030”. Đây được xem là kim chỉ nam để khai thông các chương trình trình mục tiêu quốc gia đi vào hiệu quả, thực chất đối với đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Đảm bảo an sinh xã hội

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước là bảo đảm an sinh xã hội cho các dân tộc miền núi, nhằm tạo điều kiện cho họ có cuộc sống ổn định và phát triển bền vững. Việc này không chỉ giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân mà còn góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Chính phủ đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ như đầu tư hạ tầng, giáo dục, y tế và phát triển sản xuất, nhằm giảm nghèo và nâng cao thu nhập cho các hộ gia đình. Bên cạnh đó, việc lắng nghe ý kiến và nhu cầu của cộng đồng cũng là yếu tố then chốt trong việc xây dựng chính sách an sinh xã hội phù hợp và hiệu quả. Qua đó, Đảng và Nhà nước không chỉ thể hiện trách nhiệm mà còn khẳng định cam kết phát triển đồng bộ, công bằng cho tất cả các dân tộc trong đất nước.

Để đảm bảo sự phát triển bình đẳng và bền vững, Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách ưu đãi nhằm hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhằm nâng cao trình độ dân trí và tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số tiếp cận giáo dục, Nhà nước đã thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ như miễn, giảm học phí; cấp học bổng và trợ cấp cho học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn; phát triển hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh ở các vùng sâu, vùng xa được học tập. Để nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số, Nhà nước thực hiện các chính sách y tế ưu đãi: Cung cấp bảo hiểm y tế miễn phí cho người dân tộc thiểu số; mở rộng và nâng cấp các trạm y tế xã, bệnh viện huyện ở các vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện các chương trình y tế dự phòng, chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, phòng chống dịch bệnh. Cung cấp các khoản vay ưu đãi cho đồng bào dân tộc thiểu số để phát triển sản xuất, kinh doanh. Tổ chức các lớp đào tạo nghề, tạo việc làm cho người dân tộc thiểu số, giúp họ nâng cao thu nhập và ổn định cuộc sống…

Bảo tồn và phát huy văn hóa

Đảng và Nhà nước cũng rất chú trọng đến việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa của các dân tộc miền núi. Những lễ hội truyền thống, phong tục tập quán được tổ chức và gìn giữ, góp phần duy trì giá trị văn hóa đặc sắc của từng dân tộc. Đồng thời, việc giáo dục cho thế hệ trẻ về lịch sử và văn hóa dân tộc cũng được đặc biệt quan tâm. Nhà nước khuyến khích các hoạt động nghệ thuật, nghiên cứu văn hóa và phát triển du lịch văn hóa, qua đó nâng cao nhận thức cộng đồng về tầm quan trọng của việc gìn giữ và phát huy di sản văn hóa. Tất cả những nỗ lực này không chỉ nhằm bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc mà còn tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến công tác giáo dục ngôn ngữ đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số. 27/53 dân tộc thiểu số có bộ chữ viết riêng của dân tộc mình như Tày, Thái, Hoa, Khmer, Nùng, Mông, Gia-rai, Ê-đê, Ba-na, Xơ-đăng, Chăm, Cơ-ho, Mnông... được bảo tồn. Bên cạnh đó, việc tổ chức dạy, học ngôn ngữ dân tộc thiểu số cũng được triển khai ở các trường học vùng đồng bào dân tộc thiểu số trên cả nước.

Các chính sách bảo tồn, phát triển các di sản văn hóa truyền thống vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm triển khai thực hiện, qua đó, nhiều hoạt động giao lưu văn hóa diễn ra trên phạm vi cả nước, từng vùng, từng địa phương, từng dân tộc, như: Giao lưu văn hóa các dân tộc tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam hằng năm; ngày hội văn hóa các dân tộc vùng Đông Bắc, Tây Bắc, miền Trung và miền Đông Nam Bộ, ngày hội văn hóa dân tộc Mông, Chăm, Khmer, Mường, Dao, Hoa, Thái...

          Tăng cường công tác quản lý Nhà nước

Đảng và Nhà nước ta xác định nguyên tắc cơ bản để đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội trong quản lý nhà nước đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Việt Nam là huy động sự tham gia rộng rãi của các chủ thể vào toàn bộ quá trình hoạch định, thực thi và điều chỉnh chính sách công; quản lý bằng pháp luật; công khai, minh bạch; thích ứng và linh hoạt; định hướng và đồng thuận; công bằng và bình đẳng; hiệu lực và hiệu quả; trách nhiệm giải trình. Mối quan hệ giữa quản lý nhà nước của Chính phủ và chính quyền địa phương ở Việt Nam đã và đang được xây dựng, triển khai để góp phần giải quyết hài hòa các lợi ích, hướng đến và hiện thực hóa các giá trị cùng được chia sẻ để mang đến hạnh phúc cho Nhân dân, phù hợp với Hiến pháp và pháp luật.

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định sẽ tiếp tục ban hành các chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức kinh tế tư nhân, các tổ chức phi lợi nhuận, tổ chức tình nguyện, các hội và tổ chức cộng đồng ở địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số tham gia nhiều hơn vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tạo dựng niềm tin cho các chủ thể này đóng góp vào quá trình xây dựng và thực thi chính sách quản lý nhà nước đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Để công tác dân tộc đạt hiệu quả cao, Đảng và Nhà nước đã củng cố bộ máy quản lý tại các địa phương, đào tạo cán bộ có trình độ chuyên môn và am hiểu về văn hóa dân tộc. Điều này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả trong việc thực hiện các chính sách mà còn tạo sự gắn kết giữa chính quyền và người dân.

          Tăng cường đoàn kết dân tộc

         Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng chính sách đại đoàn kết dân tộc, coi đây là một trong những nền tảng quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước. Tư tưởng đại đoàn kết là một trong những giá trị cốt lõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã khẳng định rằng: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”. Chính vì đó, Đảng và Nhà nước ta đã và đang tích cực xây dựng các chính sách và pháp luật nhằm củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, khuyến khích sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân vào quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; triển khai nhiều chương trình, chính sách hướng tới việc xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các khu vực. Những chính sách này không chỉ đảm bảo sự công bằng và tiến bộ xã hội mà còn tăng cường sự đoàn kết giữa các thành phần dân tộc, tôn giáo và cộng đồng khác nhau.

Việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu của các chính sách phát triển kinh tế - xã hội mà còn là yếu tố chiến lược nhằm giữ vững ổn định chính trị và chủ quyền quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.   

Có thể khẳng định, chính sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với công tác dân tộc miền núi là một trong những yếu tố quyết định giúp các dân tộc thiểu số vươn lên trong cuộc sống. Những chính sách, chương trình hỗ trợ, cùng với sự chăm lo về văn hóa, giáo dục, an sinh xã hội đã tạo ra động lực để các dân tộc miền núi phát triển bền vững, hòa nhập vào sự phát triển chung của đất nước. Điều này không chỉ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân mà còn củng cố thêm khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa Việt Nam tiến tới một tương lai thịnh vượng.

                               Bài và ảnh: HÙNG NAM

Các tin khác
 
 
 
LIÊN KẾT WEBSITE
 

Địa chỉ liên hệ
SỞ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG QUẢNG TRỊ
Điện thoại: (0233) 3575155 - Fax: (0233) 3554711
Email: sotttt@quangtri.gov.vn
Địa chỉ: 51 Trần Hưng Đạo, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị
Người chịu trách nhiệm chính: Ông Nguyễn Văn Tường, Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Quảng Trị
Đơn vị vận hành: Bản quyền thuộc Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Quảng Trị (Ghi rõ nguồn “https://sotttt.quangtri.gov.vn/” khi phát hành lại thông tin từ trang web này)